Giải quyết thế nào khi chồng có con chung với người khác?

Câu hỏi tư vấn: Xin chào, tôi muốn nhờ luật sư tư vấn về tình huống của gia đình tôi như sau: Tôi vừa biết được chồng tôi có quan hệ và có một đứa con với một người phụ nữ khác. Chồng tôi còn đứng tên trong giấy khai sinh của đứa trẻ.

Tôi muốn hỏi trong trường hợp này, liệu chồng tôi đã vi phạm pháp luật hay không và có bị xử lý hình sự không? Đứa trẻ có liên quan gì tới tài sản của gia đình tôi. Gia đình tôi không muốn cho chồng tôi đứng tên trong giấy khai sinh của đứa trẻ. Vậy xin hỏi luật sư, gia đình tôi phải làm thế nào để chồng tôi không được đứng tên trong giấy khai sinh của đứa trẻ. Xin cảm ơn.

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia. Về trường hợp của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

– Thứ nhất, hành vi ngoại tình có vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng?

Theo Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014, việc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác khi đã có vợ hoặc chồng là bị nghiêm cấm. Hành vi chung sống như vợ chồng đề cập đến việc người đã có vợ hoặc chồng sống cùng với người khác mà không công khai hoặc công khai nhưng có các dấu hiệu chung sống như một gia đình, bao gồm việc có đứa con chung và duy trì mối quan hệ này. Vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng có thể bị xử phạt từ 3.000.000 đến 5.000.000 đồng theo quy định của Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Tùy thuộc vào tính chất và hậu quả của vi phạm, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Tuy nhiên, dựa trên những thông tin bạn cung cấp, chồng bạn chỉ có quan hệ lén lút với người phụ nữ khác và có một đứa con chung, chưa thể coi là hành vi chung sống như vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Chỉ khi chồng bạn và người phụ nữ đó có các dấu hiệu chung sống như một gia đình như đã được phân tích ở trên, thì mới có căn cứ để xử lý hành chính hoặc hình sự.

– Thứ hai, về quan hệ cha con giữa chồng bạn và đứa bé

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình hiện hành, việc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng của hai bên không được bảo vệ pháp luật; tuy nhiên, đứa con được sinh ra vẫn có các quyền lợi như bất kỳ đứa trẻ nào khác như quyền được cha mẹ nhận nuôi. Điều 91 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

Điều 91. Quyền nhận con

1. Cha mẹ có quyền nhận con, bao gồm cả trường hợp con đã qua đời.

2. Trong trường hợp người đã có vợ hoặc chồng nhận con, không cần phải có sự đồng ý của người kia.

Do đó, chồng bạn có quyền nhận con và đứng tên trong giấy khai sinh của đứa bé, ngay cả khi bạn và gia đình không đồng ý. Vì vậy, nếu chồng bạn và người phụ nữ đó có quan hệ cha con, gia đình bạn không có cách nào để loại bỏ tên chồng bạn khỏi giấy khai sinh của đứa bé.

– Thứ ba, về quyền thừa kế tài sản

Theo Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình, việc con được sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ và có quyền lợi tương đương với những đứa trẻ sinh ra trong hôn nhân. Với tư cách là con của chồng bạn (được ghi nhận trong giấy khai sinh), đứa bé đó có quyền thừa kế theo pháp luật của chồng bạn theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2015.

Related Posts